TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM ĐỊNH HƯỚNG NÔNG DÂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN

Từ Chính sách ra Cuộc sống: Thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu; Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh!” và lời dạy của cổ nhân “phi nông bất ổn”, nên trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng giành độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm và coi trọng phát triển nông nghiệp.

Trong thời đại ngày nay, với những gì chúng ta đã có, tôi tin là nền nông nghiệp Việt Nam sẽ luôn chủ động về tâm, thế và lực để làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và công cuộc chuyển đổi số quốc gia để từ đó có những đổi thay căn bản và toàn diện về thể chế và tổ chức, về khoa học và công nghệ, về giáo dục và đào tạo, về khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp, đủ sức tạo ra những đột phá về chất và lượng, tạo ra các động lực và nguồn lực mới, đưa nông nghiệp nước ta vươn lên những tầm cao mới, mang tính thời đại và cách mạng, thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, có giá trị gia tăng cao, có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường toàn cầu, mang lại cho bà con nông dân cuộc sống ngày thêm ấm no hơn, giàu có hơn, nông thôn Việt Nam ngày thêm văn minh, giàu đẹp và thịnh vượng hơn.

NGHIÊN CỨU TRƯỞNG CHUỖI HỘI THẢO CHIẾN LƯỢC DỮ LIỆU LÊ NGUYỄN THIÊN NGA

Thực tiễn gần 40 năm đổi mới cho thấy, Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, phải nhập khẩu lương thực chuyển sang một nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn trở thành quốc gia xuất khẩu nông sản thuộc nhóm hàng đầu trong khu vực và trên thế giới.

Thành tựu đó có sự đóng góp to lớn của các doanh nghiệp, doanh nhân đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và bà con nông dân, những người đang chung sức, nỗ lực không ngừng để tạo dựng nên nhiều thương hiệu nông sản Việt – niềm tự hào của quốc gia trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp thời gian qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của quốc gia và chưa thật sự bền vững, hiệu quả. Trong bối cảnh toàn Đảng đang chuẩn bị các hoạt động tổng kết và báo cáo tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV. Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận bức tranh tổng quan Bối cảnh chuyển đổi số và liên thông Dữ liệu Quốc gia trong kỉ nguyên mới.

Chiến lược Dữ liệu Quốc gia đến năm 2030 đã được Chính phủ phê duyệt, đặt mục tiêu xây dựng hạ tầng dữ liệu mạnh mẽ, kết nối, chia sẻ và an toàn, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội toàn diện.

Trên cơ sở đó, Chiến lược hướng tới hạ tầng kết nối được 100% trung tâm dữ liệu, từ đó tạo mạng lưới chia sẻ năng lực tính toán, xử lý dữ liệu lớn. Theo đó, Chính phủ số được hoàn thành với 100% cơ sở dữ liệu quốc gia được số hóa, kết nối, chia sẻ. Đặc biệt về kinh tế-xã hội hóa, mục tiêu sẽ hoàn thiện dữ liệu các ngành, trong đó nông nghiệp vẫn là lĩnh vực trọng tâm và cần ưu tiên chuyển đổi dữ liệu, chuyển đổi số. 

Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030 với tầm nhìn mở ra không gian hoạt động và phát triển mới cho Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, là nhân tố thúc đẩy tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, đảm bảo cho tiến trình chuyển đổi số thành công, đưa Việt Nam trở thành quốc gia số an toàn. Không những thế, dữ liệu còn được kỳ vọng góp phần chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, đưa Việt Nam vượt qua mức thu nhập trung bình thấp, đạt được mục tiêu trở thành nước thu nhập cao.

Một số vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về nguồn lực và động lực phát triển Chiến lược Dữ liệu Quốc gia trong bối cảnh chuyển đổi số và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với một số giải pháp chính cho Quốc gia cũng phù hợp để liên kết dữ liệu liên thông trong ngành nông nghiệp

THỨ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN PHÙNG ĐỨC TIẾN

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến đã đánh giá cao tổng hội trong hơn 10 năm hoạt động đã thực hiện được nhiều các hoạt động có ý nghĩa hỗ trợ cho các doanh nghiệp ngành nông nghiệp và nông dân. Trong đó, có diễn đàn giữa doanh nghiệp và nhà nông được tổ chức hằng năm nhằm chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và tăng cường sự hợp tác giữa các bên.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, với sự tham gia tích cực doanh nghiệp, cùng sự nỗ lực, chịu khó của bà con nông dân sẽ đưa ra những giải pháp hiệu quả để thúc đẩy một nền nông nghiệp phát triển bền vững, hiệu quả, không những đáp ứng nhu cầu trong nước và còn vươn rộng, vươn xa ra trường quốc tế.

Bộ NN&PTNT cùng các bộ, ngành, địa phương triển khai có hiệu quả chính sách hỗ trợ cho người dân, hợp tác xã, hiệp hội, doanh nghiệp. Bộ đề xuất cơ chế chính sách và biện pháp khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, các nhân là thành viên phát triển nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ chuyển đổi số và đào tạo cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, thương mại nông, lâm, thủy sản, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh

CHỦ TỊCH TỔNG HỘI NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM

ông Hồ Xuân Hùng, Chủ tịch Tổng hội NN&PTNT cho rằng, sự gắn kết giữa doanh nghiệp với nhà nông còn chưa thật sự tốt, người nông dân vẫn bị động từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.

Một vướng mắc nữa là số lượng doanh nghiệp đầu tư vào khu vực này vẫn còn khá khiêm tốn do cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn không đủ mạnh, cách huy động, kêu gọi, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chưa thật sự tốt nên vẫn chưa có sức hấp dẫn, cuốn hút doanh nghiệp.

Do đó, diễn đàn được tổ chức để các doanh nghiệp ngành nông nghiệp hoặc các doanh nghiệp đang hoạt động tại khu vực nông thôn có nhiều cơ hội đối thoại, giao lưu và thông qua truyền thông để truyền tải những thông điệp, đề xuất, kiến nghị, hiến kế…

Từ đó, giúp các cơ quan chức năng để kịp thời điều chỉnh cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn hiện nay, cùng nhau chung tay xây dựng một nền nông nghiệp phát triển xanh, bền vững, đóng góp vào Kinh tế Quốc gia.

ĐỘNG LỰC VỐN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG

Thực tế cho thấy, để phát huy mô hình liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, cần xác định đúng, đủ và hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan. Đây là mấu chốt để hình thành và phát triển các chuỗi cung ứng nông sản. Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới động lực vốn tín dụng ngân hàng, bởi thiếu yếu tố này, thì chuỗi liên kết chắc chắn không thể thành công. Hiện nay, cả nước có khoảng trên 50.000 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, phát triển và tạo các chuỗi giá trị nông nghiệp bền vững, nguồn vốn tín dụng cũng như các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng là một trong những yếu tố có vai trò rất quan trọng, đặc biệt đối với lĩnh vực có tính chất mùa vụ và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như ngành nông nghiệp. Khi dòng vốn tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời sẽ góp phần gia tăng đầu tư cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật, cũng như hệ thống phân phối, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng, qua đó nâng cao giá trị nông sản Việt Nam.

Tín dụng ngân hàng xanh là một giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu tiết kiệm năng lượng và giảm khí thải độc hại, hướng nền kinh tế tới mục tiêu TTX nhằm phát triển bền vững quốc gia. Việc các nước theo đuổi mục tiêu TTX, tín dụng ngân hàng xanh là những hành động thiết thực nhất để chống biến đổi khí hậu và BVMT; đóng góp cân bằng, hài hòa giữa kinh tế, môi trường và xã hội, tránh được rủi ro về môi trường và xã hội; là cơ hội để các tổ chức tài chính, tín dụng xanh quốc tế đầu tư vốn vào Việt Nam.

Ngoài ra, tín dụng ngân hàng xanh cũng mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng xã hội. Chẳng hạn như: (i) Giúp cho các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi trong và ngoài nước; cơ hội nhận được sự hỗ trợ của nhà nước, từ đó có thể tránh được những rủi ro về môi trường và đem lại sự phát triển bền vững của chính doanh nghiệp; (ii) Người tiêu dùng có cơ hội sử dụng các sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường, hạn chế được việc sử dụng sản phẩm độc hại; được sống trong môi trường trong sạch; lợi ích lâu dài cho thế hệ kế cận. Bên cạnh đó, việc chú trọng tăng cường tín dụng ngân hàng xanh trong TTX sẽ giúp nâng cao nhận thức của các nhà quản lý, doanh nghiệp và các cá nhân về tầm quan trọng của đầu tư xanh trong phát triển bền vững.

Tuy nhiên, đến nay, việc triển khai các chương trình tín dụng ngân hàng xanh vẫn còn gặp một số rào cản nhất định như: Có thể làm giảm năng lực cạnh tranh quốc gia trong ngắn hạn, làm chậm quá trình khai thác các thế mạnh tiềm năng; chi phí đầu tư lớn, giá thành sản xuất cao hơn các sản phẩm cùng loại có thể hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nếu không có được sự hỗ trợ của chính phủ, các tổ chức tài chính và xã hội.

Đứng trước những thách thức to lớn từ hậu quả của biến đổi khí hậu, có nhiều giải pháp đã được triển khai để giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, đảm bảo môi sinh – môi trường. Giải pháp về tài chính, trong đó có chính sách tín dụng xanh, được xem là hiệu quả, từ đó góp phần hướng tới phát triển kinh tế bền vững. Để tín dụng xanh có thể phát huy hết tiềm năng trong tương lai, các ngân hàng và doanh nghiệp phải có những cam kết thực sự mạnh mẽ. 

TÍN DỤNG XANH VỚI TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG
 

Môi trường và phát triển có mối quan hệ vô cùng đặc biệt, môi trường là đối tượng và cũng chính là địa bàn để phát triển, trong khi đó, phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường. Trong mối liên kết đặc thù giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, ngân hàng đóng vai trò như một mắt xích trung gian, tác động gián tiếp đến môi trường thông qua hoạt động của khách hàng. Trong hệ thống ngân hàng, công tác quản lý môi trường có nhiều nét tương đồng với quản lý rủi ro. Việc kiểm soát chất lượng danh mục các khoản vay không những giúp ngân hàng giảm thiểu một cách tối đa tổn thất có thể xảy ra, mà còn gia tăng giá trị sinh lời cũng như uy tín cho ngân hàng. Do đó, một trong những trách nhiệm của ngân hàng là tích cực và chủ động quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong điều hành hoạt động nội bộ, đồng thời chủ động tìm kiếm và khai thác những sản phẩm và cơ hội kinh doanh thân thiện với môi trường.

Tín dụng xanh chỉ những khoản tín dụng mà ngân hàng cấp phát cho các dự án sản xuất – kinh doanh không gây rủi ro hoặc nhằm mục đích bảo vệ môi trường. Với mục đích hướng tới các dự án tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo và công nghệ sạch, các sản phẩm tín dụng xanh góp phần đem lại những lợi ích to lớn về phát triển nền kinh tế hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh, bền vững. Vì vậy, phát triển dòng tín dụng xanh là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Các định chế tài chính lớn như Ngân hàng Thế giới (WB) và trong nước là Ngân hàng Cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank) đã tiên phong xây dựng các bộ tiêu chuẩn về môi trường xã hội cho các dự án và đối tác vay vốn, khách hàng.

Hưởng ứng các chính sách về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững được Chính phủ đưa ra, VietinBank với vai trò là ngân hàng hàng đầu, cung ứng dòng vốn “mạch máu” cho nền kinh tế, đã công bố Khung Tài chính Bền vững của Ngân hàng, góp phần thực hiện cam kết đồng hành cùng Chính phủ và khách hàng đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0”.

VietinBank đã xây dựng Khung Tài chính Bền vững (Sustainable Finance Framework – SFF) để đưa ra các hướng dẫn cụ thể cho việc tài trợ và quản lý các khoản tài trợ phát triển bền vững của Ngân hàng. Khung Tài chính Bền vững của VietinBank được bên thứ hai độc lập – Morningstar Sustainalytics đánh giá là “đáng tin cậy và có tác động lớn” đối với sự phát triển bền vững.

Đặc biệt, Khung Tài chính Bền vững của VietinBank đã được Công ty hàng đầu về nghiên cứu, xếp hạng và dữ liệu ESG – Morningstar Sustainalytics đánh giá là “đáng tin cậy, có tác động lớn và phù hợp với Hướng dẫn Trái phiếu Bền vững 2021, Nguyên tắc Trái phiếu Xanh 2021, Nguyên tắc Trái phiếu Xã hội 2023, Nguyên tắc Cho vay Xanh 2023 và Nguyên tắc Cho vay Xã hội 2023” do Hiệp hội Thị trường Vốn Quốc tế – ICMA, Hiệp hội Thị trường Cho vay – LMA, Hiệp hội Thị trường Cho vay Châu Á Thái Bình Dương – APLMA ban hành.

Theo đó, Khung Tài chính Bền vững đưa ra các định hướng của VietinBank trong việc tài trợ và quản lý các khoản tài trợ cho mục đích phát triển bền vững theo 4 trụ trụ cột chính, từ mục đích sử dụng vốn, quy trình đánh giá và lựa chọn hạng mục tài trợ cho đến quản lý sử dụng vốn và báo cáo. Khung Tài chính Bền vững của VietinBank được xây dựng theo cách tiếp cận toàn diện, áp dụng cho cả công cụ tài chính cho vay và trái phiếu, phục vụ cả các dự án/phương án Xanh và Xã hội. Trong đó, các nhóm mục đích sử dụng vốn Xanh bao gồm: Năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng hiệu quả, kinh tế tuần hoàn, giao thông vận tải xanh, công trình xanh, nông – lâm – ngư nghiệp bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học; các nhóm mục đích sử dụng vốn xã hội bao gồm: Tiếp cận cơ sở hạ tầng cơ bản, nhà ở xã hội và tiếp cận các dịch vụ cơ bản (Y tế và giáo dục).

Trước khi ban hành Khung Tài chính Bền vững, VietinBank đã coi phát triển bền vững là một hoạt động trọng tâm của Ngân hàng. VietinBank đã chủ động xây dựng các chính sách, sản phẩm để tạo cơ chế linh hoạt trong việc tài trợ phát triển bền vững trong các lĩnh vực như: Năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, quản lý nước bền vững, nông nghiệp xanh, lâm nghiệp bền vững, xử lý chất thải và chống ô nhiễm.

ÔNG PHẠM TIẾN DŨNG PHÓ THỐNG ĐỐC NHNN VIỆT NAM

Trong tiến trình chuyển đổi số, dữ liệu đã và đang trở thành một nguồn tài nguyên mới, là yếu tố quan trọng mang tính quyết định. Đối với ngành Ngân hàng, thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, dữ liệu giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, thống kê, phân tích, dự báo phục vụ chỉ đạo, điều hành, hoạch định chiến lược của NHNN; giúp ngân hàng thương mại không chỉ xác thực, định danh khách hàng mà còn giúp phân tích, nắm bắt hành vi và xu hướng tiêu dùng, từ đó đưa ra quyết định trong phát triển, cung ứng sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường và nâng cao hiệu quả hoạt động.

Xác định vai trò quan trọng của dữ liệu trong chuyển đổi số ngân hàng, trong thời gian qua, NHNN thường xuyên rà soát và hoàn thiện khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho kết nối, khai thác dữ liệu, ứng dụng công nghệ nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trên cơ sở đảm bảo an ninh, an toàn và bảo mật thanh toán trong hoạt động ngân hàng.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Tài Chính Hồ Đức Phớc

Lấy ví dụ như chúng ta phải phổ biến, phải tuyên truyền cho người dân và doanh nghiệp hiểu, đồng thời, cơ quan quản lý Nhà nước cũng phải luôn luôn thay đổi, đổi mới, sáng tạo, tạo ra những sáng kiến tốt nhất để mang đến những công cụ quản lý tốt nhất, nhưng tạo điều kiện để cho doanh nghiệp phát triển. Có như vậy chúng ta mới đảm bảo được nguồn lực để đầu tư và phát triển. Chẳng hạn như về vấn đề thu ngân sách, một mặt là giảm thu thông qua giảm thuế, nhưng còn một mặt là phải tăng thu ở những lĩnh vực hay những sắc thuế lâu nay chưa thu được, hay thu ít, ví dụ như sàn thương mại điện tử, hay giao dịch xuyên biên giới hoặc là giao dịch trên thị trường chứng khoán, hay ở vấn đề chuyển giá, hay như trong vấn đề chuyển nhượng bất động sản. Đây là những lĩnh vực tiềm năng.Và muốn quản lý tốt thì phải có công cụ quản lý. Kết nối giữa thuế cơ quan thuế với dữ liệu dân cư quốc gia do cơ quan công an xây dựng và quản lý, lấy mã số định danh của dữ liệu quốc gia về dân cư làm mã số định danh thuế duy nhất. Như vậy một người mà có nhiều định danh thuế thì được xóa và chỉ sử dụng một định danh thuế duy nhất theo định danh thuế ở dữ liệu điện tử, có nghĩa là dân cư theo căn cước công dân đã được cấp, cân đối thu chi ngân sách cũng như đảm bảo các cái nguồn lực để đầu tư phát triển sẽ tốt hơn.

Chuyên gia Nguyễn Thy Nga:

Trên cơ sở kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, trong đó lĩnh vực nông nghiệp và phân vùng đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất, phát triển kinh tế số tạo động lực mới cho tăng trưởng; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong mọi ngành, lĩnh vực, tạo ra các mô hình kinh doanh mới. 

Để thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, ưu tiên thu hút công nghệ cao và bền vững, chúng ta cần nhìn nhận vai trò quan trọng của các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp thông qua mục tiêu: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt mục tiêu đến năm 2030, vốn FDI đăng ký trong lĩnh vực nông nghiệp đạt 25 tỷ USD. Trong đó, tập trung vào các dự án đầu tư có hàm lượng khoa học công nghệ cao, thân thiện với môi trường; các ngành hàng nông sản Việt Nam có thế mạnh…

Thứ nhất, Việt Nam cần tiến hành đồng bộ các giải pháp để tăng cường mở rộng quy mô, số lượng các dự án FDI đầu tư vào nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao. Doanh nghiệp là đối tượng chuyển đổi mô hình sản xuất tiên tiến, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ. Phải nói rằng, công nghệ chính là công cụ quan trọng nhất để các doanh nghiệp có thể tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam.

Thứ hai, các doanh nghiệp tạo việc làm, cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho người nông dân, người lao động, góp phần quan trọng ổn định xã hội.

– Hiện nay, số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao nhất, khoảng 32% tổng số lao động trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp.

– Mức thu nhập bình quân của lao động trong khối doanh nghiệp này cũng được cải thiện đáng kể qua thời gian, hiện nay bình quân khoảng hơn 7 triệu đồng/người/tháng.

Thứ ba, doanh nghiệp là lực lượng thực hiện đầu tư, nâng cao giá trị hiệu quả sử dụng đất; góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương, gắn với nhu cầu thị trường; tập trung vào các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.

Thứ tư, doanh nghiệp là yếu tố then chốt thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị trong nông nghiệp. Các hoạt động liên kết trong lĩnh vực nông lâm thủy sản diễn ra ngày một đa dạng, đặc biệt là liên kết góp vốn đầu tư sản xuất và liên kết bao tiêu sản phẩm. Trong đó, các doanh nghiệp là nhân tố dẫn dắt chủ đạo.

 

 

Chuyên gia Chính sách và Đổi mới Sáng tạo Nguyễn Thy Nga, chủ nhiệm Đề án Quốc gia Từ Chính sách ra Cuộc sống

VIỆN QUẢN TRỊ CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VIỆT NAM KHYẾN NGHỊ

Hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp ngành nông nghiệp Việt Nam tham gia thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu. Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, nằm trong nhóm 15 quốc gia xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới và đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á. Xuất khẩu nông sản của Việt Nam liên tục tăng trưởng góp phần cải thiện cán cân thương mại

Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới với 11 mặt hàng tiếp tục duy trì giá trị kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Trong đó, có 7 mặt hàng đạt trên 3 tỷ USD (gỗ và sản phẩm gỗ ước 16,1 tỷ USD, rau quả ước 7,1 tỷ USD, gạo ước 5,7 tỷ USD, cà phê ước 5,4 tỷ USD, hạt điều 4,3 tỷ USD, tôm 3,8 tỷ USD, cao su ước 3,2 tỷ USD). Đặc biệt, xuất khẩu rau quả, gạo, cà phê, hạt điều và hạt tiêu đều có bước tăng trưởng hai con số (cà phê tăng 56,9%, hồ tiêu tăng 53,3%, cao su tăng 24,6%, gạo tăng 10,6%. Các mặt hàng như cá basa, cá ngừ, tôm, cà phê, hạt điều, đã có vị thế khá vững chắc trên thị trường, chiếm ưu thế và đã trở thành thực phẩm rất quen thuộc với người tiêu dùng các nước trên thế giới.

Để tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy hơn nữa vai trò của mình trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta cần phải có đánh giá toàn diện về hiện trạng của các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp thông qua những điểm chính sau:

Thứ nhất, về số lượng và hình thức tổ chức sản xuất

Hiện nay, cả nước có khoảng trên 50.000 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, con số khiêm tốn trong tổng số 900.000 doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước;

– Về hình thức tổ chức sản xuất, việc cơ cấu lại sản xuất sản phẩm nông nghiệp diễn ra theo hướng chuyển dần từ hộ sản xuất sang hình thức hợp tác xã, doanh nghiệp, nhưng với tốc độ chuyển dịch còn khá chậm.

Thứ hai, về hiệu quả sản xuất kinh doanh:

Trong giai đoạn vừa qua, mặc dù doanh thu của doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp có xu hướng tăng nhẹ, chiếm 15-16% doanh thu của toàn bộ doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng lợi nhuận của các doanh nghiệp nhóm ngành trực tiếp sản xuất lại có xu hướng giảm. Nhìn chung, lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp trong ngành trực tiếp sản xuất nông nghiệp chỉ đạt 1,08 tỷ đồng, trong khi doanh nghiệp trong ngành chế biến sản phẩm nông nghiệp đạt 3,2 tỷ đồng lợi nhuận bình quân/năm.

Bên cạnh đó, năng suất lao động ngành nông nghiệp của chúng ta còn hạn chế chỉ bằng khoảng 38% năng suất lao động bình quân chung cả nước và thấp hơn hầu hết các nước trong khu vực.

Thưa toàn thể Diễn đàn!

Một trong những mục tiêu quan trọng của Hội nghị ngày hôm nay là nhận diện rõ các khó khăn, thách thức cũng như nguyên nhân đang làm cản trợ các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, tạo thành điểm nghẽn trong tăng trưởng nông nghiệp hiệu quả và bền vững.

Qua phản ánh từ cộng đồng doanh nghiệp và tổng hợp từ báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương, sau đây tôi xin tóm tắt các khó khăn, vướng mắc và hạn chế nội tại của doanh nghiệp và cơ chế chính sách theo 10 nhóm vấn đề chính sau:

Vấn đề thứ nhất, doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận đất đai để tổ chức sản xuất. Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, đặc biệt là quy hoạch các vùng nguyên liệu chưa được triển khai hiệu quả, còn thiếu sự ổn định.

Bên cạnh đó, quá trình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp diễn ra chậm, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất, đặc biệt là sản xuất hàng hóa quy mô lớn của doanh nghiệp; việc tiếp cận đất đai của nhà đầu tư thông qua việc nhận quyền sử dụng đất, thuê đất trực tiếp trên thị trường để tổ chức sản xuất nông nghiệp còn gặp khó khăn do chưa có sự đồng thuận của người sử dụng đất.

Vấn đề thứ hai, khó tiếp cận tín dụng; thuế và phí chưa hợp lý.

– Doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng, một phần do thiếu các quy định, hướng dẫn cụ thể về định giá tài sản trên đất nông nghiệp làm cơ sở xác định giá trị tài sản bảo đảm vay vốn ngân hàng.

– Quy định, thủ tục liên quan đến thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu chưa hợp lý, chưa khuyến khích được doanh nghiệp sản xuất trong nước so với doanh nghiệp nhập khẩu. Còn nhiều loại thuế, phí trong nông nghiệp gây khó khăn, cản trở kinh doanh, làm tăng chi phí của doanh nghiệp như phí kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi, phí kiểm dịch thú y…

Vấn đề thứ ba, việc cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp là giải pháp rất quan trọng để nâng cao năng suất, nhưng ngành công nghiệp cơ khí hỗ trợ cho nông nghiệp ở  Việt Nam còn nhiều hạn chế về số lượng và chất lượng. Hiện nay, hầu hết máy móc thiết bị của doanh nghiệp đều phải nhập khẩu từ nước ngoài do ngành chế tạo máy phuc vụ nông nghiệp ở Việt Nam còn rất thô sơ, chưa đáp ứng nhu cầu thị trường.

Vấn đề thứ tư, khó khăn về giống cây trồng, vật nuôi: Hầu hết các doanh nghiệp hiện nay phải nhập khẩu giống cây trồng, vật nuôi từ nước ngoài. Một số doanh nghiệp phản ánh mặc dù phát hiện nhiều gen, giống cây trồng rất tốt từ các kết quả nghiên cứu trong nước, nhưng không thể hoặc rất khó tiếp cận và nhận chuyển giao từ các viện nghiên cứu của Nhà nước.

Vấn đề thứ năm, thị trường tiêu thụ không bền vững; chuỗi liên kết còn chưa chặt chẽ với các nhà phân phối bán lẻ lớn; chưa có tổ chức,cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp về phân tích, dự báo thị trường, khuyến nghị về sản lượng và giá bán. 

Việc tổ chức sản xuất theo các mô hình liên kết vẫn còn nhiều hạn chế do khả năng hợp tác, liên kết của người dân, doanh nghiệp còn yếu, vẫn còn xảy ra tình trạng dư thừa sản phẩm nông nghiệp ảnh hưởng tới thu nhập của người sản xuất.

Vấn đề thứ sáu, nhân lực đa số trình độ thấp, tính tự do, manh mún cao; chưa được đào tạo về tiến bộ của công nghệ, kỹ thuật. Lao động vùng nông thôn tuy dồi dào nhưng ý thức công nghiệp chưa cao, mất nhiều thời gian đào tạo và tuyên truyền vận động. Mối quan hệ giữa lao động nông thôn với các doanh nghiệp cũng chưa được gắn bó, ổn định.

Vấn đề thứ bảy, ưu đãi về đầu tư công nghệ trong nông nghiệp chưa đủ mạnh; còn nhiều rào cản đối với việc công nhận và đưa ra thị trường các sản phẩm công nghệ ứng dụng trong nông nghiệp; sản xuất đại trà còn chậm, mang tính nhỏ lẻ nên hiệu quả mang lại chưa cao.

Vấn đề thứ tám, hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp như giao thông, thủy lợi, hạ tầng nuôi trồng thủy sản… chưa phát triển làm tăng chi phí cải cải tạo, chi phí vận chuyển, bảo quản hàng nông sản.

Bên cạnh đó, thị trường các yếu tố đầu vào bất ổn, một số yếu tố đầu vào phải nhập khẩu như thuốc bảo vệ thực vật phải nhập khẩu 100%, kể cả dung môi phụ gia với thuế suất 10-20% dẫn đến giá thành cao, trong khi kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp có lợi nhuận biên thấp, rủi ro cao, chu kỳ kinh doanh lâu …

Vấn đề thứ chín, nhiều thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh trong nông nghiệp còn bất hợp lý, chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển chưa được thực thi một cách nghiêm túc ở một số địa phương.

– Vấn đề chồng chéo trong quản lý, kiểm tra chuyên ngành vẫn chưa được giải quyết triệt để. Tình trạng một mặt hàng phải chịu sự kiểm tra của nhiều đơn vị khác nhau cùng thuộc Bộ đã và đang gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Thủ tục, thời gian kiểm tra chuyên ngành đối với nông sản xuất nhập khẩu còn bất hợp lý.

Vấn đề thứ mười, còn nhiều hạn chế trong quản lý nhà nước và truyền thông về an toàn thực phẩm, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.

          Thưa các quý vị đại biểu!

Nông nghiệp Việt Nam còn nhiều dư địa để phát triển, đặc biệt là phát triển các sản phẩm hữu cơ, sản phẩm chế biến, có giá trị gia tăng cao và các sản phẩm ứng dụng công nghệ cao. Vì vậy, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung vào một số nhóm giải pháp sau đây để giải quyết các khó khăn, vướng mắc nêu trên, khơi thông nguồn lực từ doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, cụ thể:

(i) Về phía các cơ quan Nhà nước: các Bộ, ngành, địa phương cần chú trọng các nhóm giải pháp chính sau:

Thứ nhất, về tư liệu sản xuất trong nông nghiệp:

– Nhanh chóng liên kết dữ liệu giải pháp tạo quỹ đất, quy hoạch các vùng đất nông nghiệp, vùng nguyên liệu minh bạch, ổn định. Nghiên cứu, sửa đổi chính sách tạo điều kiện cho việc chuyển đổi đất nông nghiệp, thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, người nông dân và doanh nghiệp.

– Liên kết dữ liệu và tổ chức thí điểm các mô hình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp tại một số địa phương để ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích phù hợp.

Thứ hai, phải thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại phục vụ sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp.

– Cần ban hành chính sách đột phá về khoa học và công nghệ, khuyến khích các dự án đầu tư công nghệ trong một số lĩnh vực chủ lực như giống cây trồng; công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch; mô hình chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn, truy xuất nguồn gốc….

– Cần có cơ chế nghiên cứu khảo nghiệm giống mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn tài nguyên về giống, kết quả nghiên cứu khoa học của các Viện, trường.

– Đẩy nhanh việc hình thành các Khu/ Trung tâm nông nghiệp công nghệ cao, trong đó phát triển, thử nghiệm các công nghệ tiên tiến, các mô hình đổi mới sáng tạo phục vụ cho nông nghiệp; quy tụ các nhà đầu tư, doanh nghiệp nông nghiệp, nhà nghiên cứu, tri thức…

Thứ ba, cần từng bước chủ động được thị trường, xây dựng thương hiệu nông nghiệp Việt Nam. Cần khẩn trương đổi mới mô hình đại diện thương mại ở nước ngoài để xúc tiến nông sản Việt Nam đối với các thị trường lớn, trọng tâm như Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc…

Thứ tư, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong nông nghiệp

– Tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học-kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp; Hỗ trợ đào tạo nông dân; lao động trong trang trại; lao động trong doanh nghiệp nông nghiệp, thành viên hợp tác xã.

– Xây dựng và ban hành chính sách thu hút chuyên gia trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực nông nghiệp, kết nối với các doanh nghiệp nông nghiệp; thu hút người lao động có trình độ cao về hợp tác xã nông nghiệp.

– Tổ chức sản xuất và liên kết dữ liệu, thúc đẩy đội ngũ chuyên gia xây dựng chính sách nông nghiệp, huy động nguồn lực liên kết, xem nông dân và doanh nghiệp là trung tâm thúc đẩy.

Thứ năm, tăng cường chủ trương ứng dụng công nghệ vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp, tận dụng tối đa các nguyên liệu, phế phụ phẩm, tái chế chúng thành các sản phẩm, tạo thành cơ chế tuần hoàn trong sản xuất, góp phần bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, chủ trương phát triển nông nghiệp công nghệ cao theo hướng đa chức năng trong nền nông nghiệp tuần hoàn.

(ii) Về phía các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp, đề nghị nâng cao chất lượng hoạt động, thực hiện tốt vai trò hỗ trợ các doanh nghiệp hội viên, là cầu nối hiệu quả giữa doanh nghiệp và Chính phủ; tổng hợp các kiến nghị, khó khăn và vướng mắc của doanh nghiệp đầu tư trong nông nghiệp, chuyển tới các cơ quan quản lý nhà nước để kịp thơi xử lý, giải quyết, tháo gỡ cho doanh nghiệp.

(iii) Đồng thời về phía cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân cần tiếp tục:

– Nêu cao tinh thần tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, nỗ lực cùng Chính phủ và người dân Việt Nam chung sức đưa các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam vươn ra biển lớn thành công.

– Đẩy mạnh tái cơ cấu, tăng cường liên kết, hợp tác kinh doanh, phát huy vai trò đầu tàu trong chuỗi liên kết, chuỗi giá trị nông nghiệp; hỗ trợ nâng cao năng lực của các hộ nông dân, hợp tác xã theo hướng sản xuất nông sản sạch, nông sản hữu cơ;

– Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất kinh doanh bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng của Cách mạng công nghiệp 4.0; nâng cao năng lực quản trị, năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp, tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ.

(iv) Sử dụng tối đa các công cụ đo lường và phân tích trong xây dựng chính sách nông nghiệp

Các công cụ đo lường và phân tích (bao gồm cả các công cụ đo lường của quốc tế sử dụng trong nội bộ các cơ quan truyền thông chính sách, các công cụ đặc biệt có thể tạo dashboard tới từng chuyên gia, phóng viên, biên tập viên và hệ thống áp dụng chung, để các cơ quan đánh giá độc lập có thể theo dõi và xếp hạng). Để truyền thông chính sách hiệu quả cần phải sử dụng những công cụ đo được những hình thức tiếp cận nào đang hoạt động hiệu quả hoặc không hiệu quả, những công nghệ truyền thông nào thu hút được người dân, doanh nghiệp, cách thức họ tương tác với những thông tin nhất định. Một số những công cụ đo lường hiệu quả như Google Analytics, đo lường lượng traffic theo tuần/tháng/quý/năm. Thời điểm nào trong tuần có lượng truy cập cao nhất, có bao nhiêu khách hàng truy cập bằng thiết bị di động, laptop và máy tính để bàn, số người tham gia đọc các khảo sát, các nội dung truyền thông chính sách, thời gian đọc trong bao lâu. Tỷ lệ thoát ra khỏi các khảo sát, báo cáo nghiên cứu, các thông điệp truyền thông. Cùng với Google Analytics, Scoop.it là công cụ đo lường website thứ hai được các đơn vị quản lý tác động truyền thông ưa chuộng sử dụng. Scoop.it đo lường được các dữ liệu về lượng khách hàng truy cập vào website, lượt xem, cũng như đánh giá và chia sẻ bài đăng của bạn… Bên cạnh rất nhiều công cụ đo lường hiệu quả truyền thông chính sách, một trong những công cụ đo lường hiệu quả thông điệp truyền thông chính sách mà các cơ quan nên cân nhắc sử dụng đó chính là Chartbeat. Không chỉ đưa ra những dữ liệu quan trọng để đánh giá xem nội dung nào của bạn đang hiệu quả nhất, công cụ đo lường hiệu quả marketing này còn cung cấp những dữ liệu khác về người dùng theo thời gian thực: hành vi của người dân, doanh nghiệp, thời gian dùng trên trang… Điều này vô cùng hữu ích, bởi những nhà quản lý nội dung nhanh chóng phản ứng và tương tác kịp thời với người dùng sau khi đọc các dữ liệu thực.

(v) Trực tiếp thu thập dữ liệu người dân doanh nghiệp thông qua các khảo sát, nghiên cứu, đảm bảo an toàn an ninh thông tin mạng.

 

Dữ liệu trực tiếp là nguồn nội dung quan trọng để phát triển chính sách. Chiến lược thu thập dữ liệu sẽ giúp các cơ quan xây dựng chính sách xác định rõ đối tượng khảo sát, từ đó mở ra các cơ hội để cải thiện chất lượng truyền thông, trải nghiệm người dân, doanh nghiệp, đồng thời tạo ra những phân khúc hấp dẫn các cơ quan mua dữ liệu và các tài nguyên số. Ngoài xây dựng nội dung hấp dẫn có thể thu hút người dân, doanh nghiệp truy cập trực tiếp và đăng ký trên các hệ thống digital, thì cần cần đầu tư vào các hệ thống công nghệ để thu thập và phân loại dữ liệu từ khảo sát, nghiên cứu.

Phát triển chính sách trên các mạng xã hội không chỉ là Facebook và YouTube (còn rất nhiều kênh thu hút đông đảo giới trẻ như: TikTok, Snapchat…) và hoàn toàn chưa hiện diện ở hình thức OTT hoặc ứng dụng messaging (WhatsApp, Viber, Zalo…) thu thập lượng thông tin lớn hơn và cá nhân hóa các thông tin theo nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, giảm bớt sức lao động cho các nhân viên truyền thông, phóng viên, báo chí và giúp họ có thời gian tập trung vào những chủ đề lớn và các cơ quan xây dựng chính sách không cần nhiều nhân lực.

Trong cơ hội thu hút đầu tư quốc tế của giai đoạn cơ cấu dân số vàng trên 100 triệu dân, nhiều quốc gia đã tận dụng được cơ hội này để bứt phá, phát triển nhanh. Tất cả các nước công nghiệp mới ở châu Á đều cất cánh bay lên nhờ đã tận dụng thành công giai đoạn cơ cấu dân số vàng. Tuy nhiên, cũng không ít quốc gia đã bỏ lỡ, chìm sâu trong bẫy thu nhập trung bình. Hơn bao giờ hết đây là giai đoạn chúng ta cùng quyết liệt ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo thúc đẩy nghiên cứu, truyền thông chính sách quốc gia, tạo động lực đột phá cho đổi mới mô hình tăng trưởng, tất cả cùng chung tay để tạo nên một Việt Nam hội nhập, như mục tiêu của Chính phủ đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Với tất cả những nỗ lực, sự quan tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và toàn thể hệ thống chính trị, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, từ vai trò cầu nối quan trọng của Tổng hội Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, sự liên kết chiến lược Dữ liệu Quốc gia, huy động nhân dân đồng hành cùng Chính phủ, tôi tin tưởng rằng, các khó khăn, rào cản của doanh nghiệp sẽ sớm được tháo gỡ để thúc đẩy doanh nghiệp tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp Nam nói riêng và đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung.

 

Các cuộc trao đổi chuyên sâu trong chuỗi “Chương trình đối thoại chính sách” của Chuyên gia Nguyễn Thy Nga – chủ nhiệm Đề án Từ Chính sách ra Cuộc sống, phối hợp Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản, Văn phòng Chính phủ, Hội đồng lý luận Trung ương, công ty truyền thông Thiên Lộc về Nguồn lực và động lực cho phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.

Chương trình Đối thoại Chính sách được triển khai trên quy mô toàn quốc, bao gồm: sự kiện, hội thảo khoa học cấp Quốc gia, tọa đàm cấp cao, đối thoại Chính sách với các lãnh đạo Đảng và Chính phủ, các lãnh đạo Bộ ngành, địa phương, nhằm phát huy tối đa hiệu quả tuyên truyền của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương trong công tác triển khai thực hiện Chủ trương chung, góp phần đưa nền kinh tế sớm vượt qua khó khăn, không lỡ nhịp với tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu, đồng thời tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội cho giai đoạn 2021-2025 và các năm tiếp theo, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động, sức cạnh tranh, năng lực nội tại và tính tự chủ trong trung và dài hạn.

NGUYỄN THY NGA

Viện trưởng Viện Quản trị Chính sách và Chiến lược phát triển. Chủ nhiệm nhiệm vụ phát triển thị trường cho doanh nghiệp theo Quyết định 844 của Thủ tướng cho hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Quốc gia đến năm 2025.