
Qua nghiên cứu bài viết kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, trong đó có định hướng “Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số” và nghiên cứu Luật Dữ liệu, Chiến lược Dữ liệu quốc gia đến năm 2030 được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 02/2/2024, KTNN nhận thấy: Luật Dữ liệu và Chiến lược dữ liệu quốc gia là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng để triển khai thực hiện mục tiêu đến năm 2030 mà Tổng Bí thư đã định hướng. Từ nhiều năm nay, Kiểm toán nhà nước xác định chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành của từng bộ, ngành, từng cơ quan nhà nước là công việc rất khó khăn, chưa có tiền lệ, nếu không có quyết tâm chính trị cao, hành động quyết liệt thì khó có thể đạt được mục tiêu và kết quả.
Trong những năm qua, KTNN xác định việc xây dựng hạ tầng dữ liệu của KTNN được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm được xác định trong Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030 và trong Chiến lược phát triển và kiến trúc tổng thể CNTT của KTNN giai đoạn 2019-2025, tầm nhìn năm 2030. Việc xây dựng hạ tầng dữ liệu để chuẩn hóa kiến trúc CSDL cho KTNN, cũng như thu thập, lưu trữ, tổng hợp, quản trị, vận hành dữ liệu được Lãnh đạo KTNN ưu tiên đặt lên hàng đầu.
Tại kỳ họp thứ VIII Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Dữ liệu. Để góp ý cho việc triển khai thực hiện Luật và nghiên cứu phát triển Chiến lược Dữ liệu Quốc gia, KTNN xin đóng góp một số ý kiến để phát triển Chiến lược dữ liệu quốc gia và chia sẻ một số thông tin về tình hình xây dựng hạ tầng dữ liệu và ứng dụng phân tích dữ liệu trong hoạt động của Kiểm toán nhà nước trong những năm qua.
- MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM PHÁT TRIỂN CHIẾN LƯỢC DỮ LIỆU QUỐC GIA
- Về xây dựng danh mục CSDL quốc gia và CSDL chuyên ngành
Tầm nhìn đến 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới, đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp. Tuy nhiên, sự thay đổi về công nghệ đòi hỏi cần có những chính sách pháp lý, cải cách mới để mọi doanh nghiệp đều dễ dàng tiếp cận và phát triển. Nhận thấy bức tranh toàn cảnh ấy, với hi vọng thúc đẩy sự hiểu biết về các chính sách Việt Nam của người dân và doanh nghiệp, cũng như ghi nhận những kiến nghị chính sách trong cuộc cách mạng lần thứ 4. Đề án “Từ Chính sách ra Cuộc sống” được triển khai liên Bộ từ năm 2018 cho đến nay, với nhiều hoạt động hội nghị, hội thảo, nghiên cứu khoa học, liên kết thông tin chính sách đến với cuộc sống, thể hiện thông điệp đồng hành của Chính phủ với vai trò trung tâm của doanh nghiệp và người dân.




Chủ nhiệm đề án: Nguyễn Thy Nga

NGUỒN NỘI DUNG VÀ PHỐI HỢP
+ Văn phòng Chính phủ
+ Ban Kinh tế Trung ương
+ Bộ Khoa học và công nghệ
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư
+ Bộ Tài chính
+ Bộ Y tế
+ Bộ Ngoại giao
+ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
+ Bộ Tư Pháp
+ Các Sở, ban ngành, tổ chức, Hiệp hội
+ Các tập đoàn, doanh nghiệp trên cả nước
+ Đại diện các cơ sở đào tạo, trường Đại học, cao đẳng trên cả nước
+ Cơ quan thông tấn, báo chí, truyền thông quốc tế, trung ương và địa phương

ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH TIÊU ĐIỂM
Đối thoại chiến lược phát triển với các lãnh đạo, chuyên gia về các vấn đề chính trị, kinh tế, đối ngoại và các vấn đề khác tại Việt Nam.
MỤC ĐÍCH VÀ HOẠT ĐỘNG
+ Tiên phong hé mở những chiến lược trong tương lai gần của Chính Phủ và các Bộ/ Ban/ Ngành trước khi công bố rộng rãi tới các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Diễn đàn giao lưu, đối thoại giữa các nhánh: Chuyên gia/ Nhà khoa học/ Nghiên cứu – Chính phủ và các Bộ/ Ban/ Ngành – Doanh nghiệp và Người dân.
+ Chương trình cập nhập những thông tin về thực trạng Việt Nam, phân tích khuyến nghị các chính sách về tất cả các lĩnh vực và các hoạt động nổi bật, xu hướng.



NGUYỄN THY NGA
Viện trưởng Viện Quản trị Chính sách, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
Xây dựng CSDL quốc gia và CSDL chuyên ngành của các bộ, ngành, địa phương là một nhiệm vụ khó khăn phức tạp và tốn nhiều thời gian, nhân lực, vật lực, kinh phí của NSNN do đó, các thông tin, dữ liệu được xác định là CSDL quốc gia phải thật sự là những thông tin hữu ích, cần thiết phục vụ mục đích nghiên cứu, phân tích, hoạch định chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng,… tránh tình trạng xây dựng, ban hành danh mục CSDL quốc gia, CSDL chuyên ngành với phạm vi dữ liệu và thông tin lưu giữ, chia sẻ không hợp lý, những thông tin cần thiết, hữu ích thì không có trong khi những thông tin có thì không thật cần thiết hoặc có tính hữu ích thấp, gây tốn kém, lãng phí kinh phí xây dựng và cập nhật định kỳ, chẳng hạn: CSDL quốc gia về đất đai (tại Phụ lục đính kèm Nghị định số 47/2024/NĐ-CP ngày 09/5/2024 của Chính phủ về quy định danh mục CSDL quốc gia; việc xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng CSDL quốc gia) quy định thông tin về dữ liệu chủ sẽ lưu trữ và chia sẻ là: “a) Thông tin về thửa đất; b) Thông tin khoanh đất hiện trạng; c) Thông tin vùng quy hoạch sử dụng đất; d) Siêu dữ liệu (dữ liệu đặc tả) đất đai; đ) Danh mục dữ liệu đất đai dùng chung.”, trong khi người dân và các doanh nghiệp quan tâm nhiều hơn đến những thông tin khác, như: kế hoạch sử dụng đất, mật độ xây dựng, chiều cao xây dựng tối đa, địa chất khu đất, giá đất giao dịch thành công trên thị trường,… thì lại không có trong CSDL.
- Về cập nhật CSDL quốc gia và CSDL chuyên ngành
Việc cập nhật CSDL quốc gia được quy định tại Điều 10 Nghị định số 47/2024/NĐ-CP của Chính phủ, tuy nhiên Nghị định lại không nêu rõ về thời điểm, thời hạn phải cập nhật từng nội dung thông tin, dữ liệu theo phạm vi dữ liệu đã được quy định vào CSDL quốc gia, dẫn tới việc một số bộ, ngành, địa phương thường cập chậm trễ trong cập nhật CSDL quốc gia và CSDL chuyên ngành. Việc cập nhật thông tin chậm trễ dẫn tới làm giảm giá trị sử dụng, tính hữu ích của CSDL quốc gia và các CSDL chuyên ngành. Do đó, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền cần quy định rõ về thời điểm, thời hạn phải cập nhật từng nội dung thông tin, dữ liệu theo phạm vi dữ liệu đã được quy định vào CSDL quốc gia và CSDL chuyên ngành nhằm đáp ứng kịp thời công tác quản lý nhà nước, giải quyết thủ tục hành chính, cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp hoặc phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.
- Về tiến độ thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển Chiến lược dữ liệu quốc gia
Theo khoản 1 mục IV phần A Phụ lục đính kèm Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 02/2/2024 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chiến lược Dữ liệu quốc gia đến năm 2030, nhiệm vụ: “Thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước, phát huy tối đa hiệu quả của hệ thống các nền tảng số” sẽ thực hiện trong thời gian từ 2024 – 2030. Quy định như trên vừa không kịp thời, vừa không phù hợp với tiến độ thực hiện một số nhiệm vụ tại: khoản 4 mục I phần B: “Xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn kỹ thuật về kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, hệ thống thông tin”, hoàn thành năm 2024-2025; khoản 1 mục IV phần B: “Hoàn thiện nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu tại bộ, ngành, địa phương kết nối liên thông với nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia”, hoàn thành năm 2024-2025. KTNN kiến nghị nhiệm vụ kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước (nêu trên) cũng thực hiện và hoàn thành trong năm 2024 – 2025, vì đã đủ điều kiện để kết nối, chia sẽ dữ liệu khi nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu và văn bản hướng dẫn kỹ thuật kết nối, tích hợp, chia sẻ cũng đã hoàn thành trong năm 2025.
- Về xử lý vi phạm trong cập nhật CSDL, khai thác, sử dụng, phá hủy CSDL quốc gia và CSDL chuyên ngành
Luật Dữ liệu có quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm, nhưng không quy định các biện pháp xử lý vi phạm trong khai thác, sử dụng, phá hủy CSDL quốc gia và CSDL chuyên ngành. Để việc xây dựng, cập nhật thông tin, đảm bảo an toàn CSDL quốc gia và CSDL chuyên ngành của các bộ, ngành, địa phương, KTNN đề nghị Chính phủ và các cơ quan chức năng nghiên cứu ban hành cụ thể văn bản xử lý vi phạm trong chuyển đổi số nói chung và trong xây dựng, cập nhật, khai thác sử dụng CSDL quốc gia và CSDL chuyên ngành nói riêng.
- Về định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá lập dự toán chi phí các công tác, công việc, hoạt động liên quan đến chuyển đổi số, xây dựng, cập nhật, khai thác, sử dụng, bảo trì, bảo mật CSDL quốc gia và CSDL chuyên ngành
Để triển khai thực hiện Luật Dữ liệu và Chiến lược Dữ liệu quốc gia một cách tiết kiệm, hiệu quả, thì việc ban hành mới những định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá của các thành phần công việc, những công tác liên quan đến chuyển đổi số, xây dựng, cập nhật, khai thác, sử dụng, bảo trì, bảo mật CSDL chưa có định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá lập dự toán cũng như việc rà soát, điều chỉnh những định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá đã ban hành hoặc ban hành tạm thời, nhưng đến nay không còn phù hợp là việc làm cấp thiết và không kém phần quan trọng so với các nhiệm vụ trọng tâm đã đề ra trong chiến lược Dữ liệu quốc gia đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Qua thực tế hoạt động kiểm toán các chương trình chuyển đổi số, số hóa hồ sơ tài liệu, xây dựng CSDL của các bộ, ngành, địa phương, KTNN nhận thấy nhiều thành phần công việc, những công tác liên quan đến chuyển đổi số, thuê đường truyền dữ liệu, đường truyền họp trực tuyến, thuê đường dây nóng, cũng như việc số hóa hồ sơ, tài liệu, cập nhật thông tin dữ liệu được các địa phương, đơn vị xây dựng dựa trên báo giá của các nhà cung cấp hặc dựa trên Thông tư số 194/2012/TT-BTC ngày 15/11/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn mức chi tạo lập thông tin điện tử nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của các cơ quan, đơn vị sử dụng NSNN, tuy nhiên tại Thông tư này, Bộ Tài chính cũng không nêu rõ các mức chi hay đơn giá trong Thông tư này xây dựng dựa trên định mức kinh tế kỹ thuật nào? đồng thời nhiều đơn giá trong Thông tư chỉ quy định mức tối đa mà không định đơn giá cụ thể (như đơn giá số hóa thông tin số hóa thông tin: “mức chi tối đa bằng 30% mức chi tạo lập trang siêu văn bản quy định tại khoản 5 Điều này.”), từ đó dẫn tới việc áp dụng đơn giá một số công tác, thành phần công việc không nhất quán giữa các địa phương, đơn vị đối với cùng một công tác, công việc cụ thể. Do đó, việc xây dựng và áp dụng đồng bộ, nhất quán bộ định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá cho hoạt động chuyển đổi số và công tác xây dựng, cập nhật CSDL, bảo trì, bảo dưỡng hạ tầng CSDL là rất quan trọng và rất cần thiết.
Đề nghị Chính phủ giao các cơ quan chức năng khẩn trương nghiên cứu ban hành hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá các công tác, công việc, thành phần công việc liên quan đến chuyển đổi số và công tác xây dựng, cập nhật CSDL, bảo trì, bảo dưỡng hạ tầng CSDL để các bộ, ngành, địa phương, đơn vị có căn xây dựng, phê duyệt dự toán và triển khai thực hiện chiến lược dữ liệu quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
II. VỀ TÌNH HÌNH XÂY DỰNG HẠ TẦNG DỮ LIỆU VÀ ỨNG DỤNG PHÂN TÍCH DỮ LIỆU TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN CỦA KTNNĐịnh hướng xây dựng hạ tầng dữ liệu tại KTNN
Trong thời kỳ chuyển đổi số, dữ liệu và khai thác dữ liệu giữ vai trò trung tâm, dữ liệu là tài sản quan trọng trong quá trình phát triển của một quốc gia nói chung và của mỗi bộ, ngành, địa phương nói riêng. Do đó, xây dựng hạ tầng dữ liệu của KTNN được Lãnh đạo KTNN xác định là một nhiệm vụ trọng tâm trong Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030 và trong Chiến lược phát triển và kiến trúc tổng thể CNTT của KTNN giai đoạn 2019-2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Thực tế hiện nay, Bộ Tài chính, KBNN, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan cũng như nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước đang thực hiện công tác hạch toán, xử lý số liệu và lập BCQT NSNN, BCTC trên các chương trình phần mềm công nghệ thông tin. Hệ thống sổ kế toán, chứng từ kế toán được lưu trữ dưới các dạng CSDL khác nhau. Do đó, KTNN cũng cần thiết phải xây dựng hệ thống CSDL chuyên ngành và xây dựng các phần mềm hỗ trợ hoạt động kiểm toán để từng bước chuyển đổi số, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động kiểm toán và độ tin cậy của các ý kiến đánh giá, xác nhận, kiến nghị trong các báo cáo kiểm toán của KTNN.
Nhận định rõ những yêu cầu cấp bách nêu trên, trong “Chiến lược phát triển và kiến trúc tổng thể Công nghệ thông tin của Kiểm toán nhà nước giai đoạn 2019 – 2025, tầm nhìn đến 2030” của KTNN và theo Kiến trúc dữ liệu của KTNN, việc xây dựng hạ tầng dữ liệu để chuẩn hóa kiến trúc CSDL cho KTNN, cũng như thu thập, lưu trữ, tổng hợp, quản trị, vận hành dữ liệu được ưu tiên đặt lên hàng đầu, và phải tập trung xây dựng, phát triển ngay từ thời điểm hiện tại, để có thể sẵn sàng cho sự phát triển, thay đổi của KTNN trong tương lai theo hướng hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, từng bước tới đổi mới phương pháp kiểm toán theo hướng kiểm toán số.
1. Việc xây dựng các văn bản, chính sách phục vụ phát triển hạ tầng dữ liệu
KTNN đã xây dựng một số các văn bản chính sách phục vụ cho quá trình phát triển hạ tầng dữ liệu, bao gồm:
– Luật sửa đổi, bổ sung Luật KTNN năm 2019 đã quy định đến quyền truy cập, khai thác dữ liệu điện tử của KTNN;
– Năm 2023 ban hành Kiến trúc dữ liệu của KTNN, trong đó mục tiêu nhằm đẩy mạnh việc phát triển hạ tầng dữ liệu và xây dựng các cơ chế, chính sách, quy định, quy trình liên quan đến phát triển, quản trị dữ liệu.
Ngoài ra, KTNN đã quan tâm, chú trọng việc xây dựng quy định, quy trình nghiệp vụ và các quy định liên quan đến quản lý CNTT để cập nhật, lưu trữ và khai thác dữ liệu phục vụ hoạt động kiểm toán; nâng cao hiệu quả hoạt động của các ứng dụng CNTT như: Các quy chế khai thác, quản lý và sử dụng phần mềm khi đưa phần mềm vào hoạt động; Quy chế cập nhật dữ liệu trên các phần mềm; Quy định về đánh giá mức độ ứng dụng CNTT của các đơn vị để đẩy mạnh hoạt động CNTT của KTNN,…
2. Việc ứng dụng phân tích dữ liệu trong hoạt động kiểm toán
Trong thực tiễn hoạt động kiểm toán, ngoài xây dựng CSDL chuyên ngành, KTNN cũng đã từng bước ứng dụng phân tích dữ liệu trong hoạt động kiểm toán, cụ thể:
– Đã thực hiện khảo sát hệ thống CNTT của đơn vị được kiểm toán với mục tiêu thu thập các dữ liệu phục vụ cuộc kiểm toán.
– Các kiểm toán viên CNTT làm việc tại trụ sở đơn vị được kiểm toán, nơi gắn với dữ liệu hệ thống được lưu trữ để truy cập trực tiếp và sẵn sàng phân tích dữ liệu.
– Sử dụng kết hợp các công cụ phân tích dữ liệu phổ thông, như: Excel, Access với các công cụ phân tích dữ liệu chuyên sâu như IDEA, SQL.
– Kiểm toán viên đã sử dụng kết hợp các công cụ phân tích dữ liệu phổ thông như Excel, Access với các công cụ phân tích dữ liệu chuyên sâu như IDEA, SQL. Đối với các kiểm toán viên thông thường, việc phân tích dữ liệu thường sử dụng phần mềm Excel để xử lý, phân tích lượng dữ liệu khoảng 30.000 – 100.000 dòng dữ liệu; đối với các kiểm toán viên được trang bị kiến thức/kinh nghiệm về phân tích dữ liệu chuyên sâu thường sử dụng phần mềm IDEA để xử lý, phân tích khối dữ liệu khoảng trên 1.000.000 dòng dữ liệu; đối với các kiểm toán viên kiểm toán CNTT, số dòng dữ liệu phân tích sẽ là 10.000.000 dòng dữ liệu và có thể kết nối phân tích dữ liệu từ các nguồn khác nhau.
– KTNN đã triển khai một số các hệ thống như: Xây dựng mã định danh và hệ thống CSDL dùng chung cho toàn bộ hệ thống, bao gồm: danh mục đơn vị được kiểm toán; danh mục dự án đầu tư; Danh mục chương trình mục tiêu; Hệ thống nền tảng phục vụ việc kết nối, chia sẻ dữ liệu với các đơn vị được kiểm toán và các cơ quan chức năng; Hệ thống Cổng trao đổi thông tin; Xây dựng ứng dụng hoạt động kiểm toán nhằm quản lý, lưu trữ và xử lý dữ liệu theo quy trình kiểm toán trong các khâu; Xây dựng các phần mềm hỗ trợ kiểm toán viên phân tích dữ liệu của các lĩnh vực Doanh nghiệp, Tài chính ngân hàng và Dự án đầu tư; Xây dựng hệ thống nhằm quản lý, số hóa hồ sơ kiểm toán để thuận tiện cho việc truy xuất, tìm kiếm. Ngoài ra, xây dựng một số các CSDL phục vụ hoạt động kiểm toán như CSDL tài chính, CSDL đấu thầu,…
3. Một số khó khăn thách thức
3.1. Khó khăn về cơ chế chính sách
– Chưa có hành lang pháp lý đủ mạnh quy định đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán cung cấp dữ liệu điện tử và trao đổi, chia sẻ, kết nối dữ liệu với KTNN.
– Chưa cụ thể hóa hướng dẫn, quy định chi tiết các vấn đề liên quan đến việc truy cập CSDL của các đối tượng kiểm toán như quy trình, cách thức truy cập, tần suất truy cập, các loại dữ liệu cần khai thác… nên gặp khó khăn cho việc tiếp cận và thu thập dữ liệu của KTNN.
– Ngoài ra, KTNN còn gặp khó khăn trong việc xây dựng quy trình quản lý, triển khai kiểm toán trong bối cảnh ứng dụng CNTT và tin học hóa các quy trình quản lý hoạt động kiểm toán.
3.2. Khó khăn trong phát triển, quản trị dữ liệu và phân tích dữ liệu
- a) Về phát triển dữ liệu:
– Đối tượng được kiểm toán của KTNN đang trong quá trình chuyển đổi số, áp dụng CNTT dẫn đến khối lượng dữ liệu có thể thu thập chưa đầy đủ, toàn diện, chưa đạt được tiêu chuẩn về dữ liệu lớn;
– Thiếu nguồn dữ liệu chuẩn hóa, sự phối hợp của đơn vị được kiểm toán trong việc tiếp cận dữ liệu còn hạn chế: Trong quá trình kiểm toán, việc tiếp cận và phân tích dữ liệu từ các hệ thống, CSDL của đơn vị được kiểm toán là rất quan trọng. Tuy nhiên, một số trở ngại xuất hiện khi dữ liệu không được chuẩn hóa hoặc không có sẵn trong định dạng thích hợp để thực hiện kiểm toán. Đồng thời, sự phối hợp và cung cấp dữ liệu từ phía đơn vị được kiểm toán cũng có thể gặp khó khăn, làm hạn chế khả năng thực hiện kiểm toán một cách toàn diện. Ngoài ra, nhu cầu về dữ liệu đầu vào trong hoạt động kiểm toán của KTNN chưa thật sự đạt được mức chú trọng cần thiết do KTNN mới áp dụng phương pháp tiếp cận trọng yếu rủi ro, nhiều kiểm toán viên còn làm việc theo phương pháp cũ, chưa ứng dụng nhiều CNTT trong hoạt động kiểm toán.
- b) Về quản trị dữ liệu
– Khó khăn trong việc quản trị dữ liệu như: việc áp dụng, tuân thủ tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy định về dữ liệu; việc làm sạch, chuẩn hóa dữ liệu; Quản lý về chất lượng dữ liệu chia sẻ, sử dụng dữ liệu sau khi chia sẻ; Việc lựa chọn các giải pháp công nghệ phù hợp đảm bảo vừa đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ và khả năng quản trị, vận hành, phù hợp về chi phí.
– Sự thay đổi về công nghệ đặc biệt là công nghệ hoạt động trên nền tảng dữ liệu lớn diễn ra rất nhanh chóng, đòi hỏi phải tiếp cận sâu và rộng để làm chủ được các công nghệ này và KTNN chưa xây dựng được hệ thống CNTT hoàn chỉnh có khả năng kết nối, truy cập, lưu trữ dữ liệu ở cấp độ chi tiết các đối tượng kiểm toán làm cơ sở cho việc áp dụng phân tích ở cấp độ toàn KTNN. Ngoài ra, các vấn đề liên quan đến bảo mật, quản lý rủi ro và kiểm soát trong môi trường CNTT cũng làm tăng độ phức tạp trong quá trình kiểm toán.
- c) Về tổ chức triển khai ứng dụng phân tích dữ liệu lớn: Việc triển khai phân tích dữ liệu trong kiểm toán tại KTNN chỉ dừng lại mức đơn lẻ từng cuộc kiểm toán, chưa xây dựng được mô hình phân tích để có thể áp dụng trong toàn hệ thống KTNN.
- Định hướng xây dựng CSDL chuyên ngành KTNN và ứng dụng phân tích dữ liệu trong hoạt động kiểm toán
Trong thời gian tới, cùng với hoàn thiện các cơ chế chính sách, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc đã nêu, KTNN sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động để thực hiện xây dựng Hạ tầng dữ liệu và ứng dụng phân tích dữ liệu trong hoạt động kiểm toán, cụ thể:
5.1. Xây dựng nền tảng dữ liệu lớn, các CSDL và phát triển dữ liệu phục vụ hoạt động kiểm toán
Việc xây dựng hạ tầng dữ liệu của KTNN định hướng tới các CSDL được liên kết, chia sẻ, hình thành các nguồn dữ liệu lớn để khi khai thác sẽ nâng cao được chất lượng và hiệu quả kiểm toán, cụ thể:
- a) Về nền tảng dữ liệu lớn
– Xây dựng nền tảng dữ liệu lớn để thu thập, lưu trữ, quản lý các CSDL từ nhiều nguồn dữ liệu ở dạng tự nhiên liên quan đến kiểm toán (Data lake), phục vụ cho việc ứng dụng các kỹ thuật phân tích dữ liệu lớn để hỗ trợ hoạt động kiểm toán.
– Xây dựng hạ tầng tích hợp dữ liệu của hệ thống KTNN để hỗ trợ triển khai các nhiệm vụ của KTNN theo nguyên tắc mới dựa trên kiểm toán dữ liệu. Việc xây dựng hạ tầng tích hợp dữ liệu của KTNN gắn bó mật thiết và đồng bộ với hạ tầng dữ liệu quốc gia (do Chính phủ triển khai), trước tiên là các CSDL quốc gia về Đất đai, Doanh nghiệp, Tài chính, Bảo hiểm, các CSDL bản đồ liên quan tài nguyên quốc gia. Đặc biệt, các CSDL của KTNN cần kết nối được với các các CSDL quan trọng của tài chính quốc gia (Thuế, Hải quan, Kho bạc nhà nước). Tiếp theo, cần thu thập dữ liệu từ các CSDL chuyên ngành do các Bộ, ngành, địa phương triển khai có liên quan đến hoạt động KTNN.
– Xây dựng nền tảng dữ liệu mở trên cơ sở thu thập, khai thác thông tin từ mạng xã hội, các thiết bị IoT liên quan đến người dân và doanh nghiệp về kiểm toán; kết hợp với việc thu thập, tích hợp dữ liệu chia sẻ trong hệ thống kiểm toán trong khu vực (ASEANSAI, ASOSAI) và trên thế giới (INTOSAI, Big Four,..). Hướng đến hình thành hệ sinh thái dữ liệu mở KTNN từ đó chia sẻ dữ liệu với các tổ chức, cá nhân trong/ngoài nước góp phần thúc đẩy phát triển ngành.
- b) Về xây dựng CSDL chuyên ngành
KTNN xác định xây dựng CSDL chuyên ngành kiểm toán với các định hướng:
– Xây dựng các CSDL về định danh số của các đối tượng và đơn vị được kiểm toán để thuận lợi trong quản lý, xây dựng kế hoạch kiểm toán trung hạn và kế hoạch kiểm toán hàng năm
– Xây dựng tài nguyên dữ liệu lớn để khai thác, hỗ trợ quá trình xây dựng kế hoạch kiểm toán và hỗ trợ hoạt động kiểm toán của các đoàn kiểm toán, tổ kiểm toán, trong đó tập trung vào: (i) Số hóa hồ sơ, tài liệu kiểm toán các cuộc kiểm toán đã kết thúc để thuận lợi cho quá trình theo dõi thực hiện kiến nghị kiểm toán, trả lời kiến nghị kiểm toán, lập kế hoạch kiểm toán lần sau; (ii) Xây dựng CSDL về BCTC, BCQT, thông tin về tình quản lý sử dụng tài sản công, tài chính công của các bộ, ngành, địa phương, đơn vị được kiểm toán phục vụ xây dựng KHKT và hỗ trợ hoạt động kiểm toán.
– Tăng cường kết nối, chia sẻ với các CSDL quốc gia, CSDL chuyên ngành liên quan đến hoạt động quản lý, sử dụng tài sản công, tàu chính công của các đơn vị được kiểm toán để tăng cường dữ liệu và tri thức cho KTNN phục vụ các hoạt động phân tích, hỗ trợ ra quyết định đáp ứng yêu cầu kiểm toán số. Cụ thể: Xây dựng CSDL tập trung ngành kiểm toán; Xây dựng CSDL Tri thức kiểm toán; CSDL đối tượng kiểm toán; ….
- c) Về phát triển dữ liệu
Xây dựng các mô hình dữ liệu theo từng lĩnh vực chuyên môn theo một lộ trình phù hợp với nhu cầu khai thác của các bên sử dụng dữ liệu trong và ngoài KTNN.
Tiếp tục bổ sung dữ liệu theo từng nghiệp vụ cụ thể tùy thuộc vào nhu cầu quản lý và khai thác dữ liệu phát sinh trong quá trình hoạt động của KTNN. Từng bước áp dụng, yêu cầu kiểm toán viên sau khi kết thúc kiểm toán phải lưu trữ dữ liệu điện tử (các bằng chứng kiểm toán) tập trung tại các Trung tâm dữ liệu của KTNN.
Mở rộng việc chia sẻ, kết nối dữ liệu với các cơ quan bên ngoài và các hệ thống thông tin, CSDL quan trọng về tài chính của quốc gia và của các đơn vị được kiểm toán để tiếp tục làm giàu dữ liệu, phục vụ cho hoạt động kiểm toán.
Tiếp tục thực hiện việc số hóa hồ sơ, tài liệu trong quá trình kiểm toán; Cập nhật đầy đủ, kịp thời kết quả kiểm toán, thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán và các thông tin liên quan đến hoạt động kiểm toán trên các phần mềm nghiệp vụ của ngành.
Tăng cường thu thập dữ liệu mở (dữ liệu công khai trên mạng) để làm giàu dữ liệu cho hoạt động của KTNN.
5.2. Xây dựng và triển khai công cụ phân tích dữ liệu
– Trong giai đoạn đầu, tiếp tục đầu tư các công cụ, ứng dụng các phần mềm phục vụ việc xử lý dữ liệu lớn như IDEA, SQL,…
– Trên CSDL đã thu thập, trong giai đoạn tiếp theo xây dựng phần mềm phục vụ phân tích dữ liệu lớn trong hoạt động kiểm toán và xây dựng các công cụ nhằm nâng cao khả năng khai thác, cụ thể:
+ Xây dựng công cụ tìm kiếm, phân tích dữ liệu: Cung cấp cho người sử dụng công cụ tìm kiếm dữ liệu thông minh, có thể tìm kiếm các thông tin theo ngữ nghĩa, theo cụm từ gần đúng và theo thói quen người dùng,…
+ Từng bước ứng dụng công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo (AI), máy học (Machine Learning), mô hình ngôn ngữ lớn … trong việc xử lý dữ liệu lớn để giải quyết một số bài toán phù hợp như: xây dựng hệ thống trợ lý ảo hỗ trợ tìm kiếm thông minh, ứng dụng trí tuệ nhân tạo hỗ trợ hoạt động kiểm toán,..
5.3. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Về vấn đề đào tạo, phát triển nguồn nhân lực KTNN tập trung vào các nội dung chính sau:
– Thực hiện kiện toàn, sắp xếp, bố trí nguồn nhân lực làm công tác dữ liệu trên cơ sở nguồn nhân lực sẵn có, đồng thời từng bước bổ sung nhân lực có kỹ năng về dữ liệu lớn, quản lý CSDL, kho dữ liệu…, đồng thời huy động các cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán tại các đơn vị nghiệp vụ nhằm xác định yêu cầu nghiệp vụ cũng như để xây dựng các mô hình dữ liệu của KTNN.
– Đào tạo, nâng cao nhận thức và năng lực về quản lý và khai thác dữ liệu cho đội, ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của KTNN nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng tổ chức Quản trị dữ liệu tập trung của KTNN; Tiếp tục đào tạo cho kiểm toán viên kỹ năng khai thác dữ liệu từ các hệ thống thông tin, CSDL của đơn vị được kiểm toán trong quá trình thực hiện kiểm toán.
Tiếp tục tuyển dụng nguồn nhân lực có trình độ về CNTT và bổ sung nhân lực có kỹ năng về phân tích dữ liệu nâng cao (Data Analyst), khoa học dữ liệu (Data Scientist), Big Data, học máy (Machine Learning)… để đáp ứng nhu cầu quản trị, vận hành, phân tích dữ liệu lớn.